Bệnh trĩ nội ngày càng trở nên phổ biến với nhiều người. Đây là căn bệnh gây ra những lo ngại và đau đớn khó nói ở bệnh nhân. Khoa học đã nghiên cứu để tìm ra những nguyên nhân, từ đó đưa ra cách khắc phục hiệu quả cho căn bệnh này.
Bệnh trĩ nội là gì?
Bệnh trĩ nội là tình trạng các tĩnh mạch nằm bên trong niêm mạc trực tràng bị phình, giãn quá mức. Ở giai đoạn đầu, các tĩnh mạch này tạo thành một cục thịt nhỏ nằm dưới đường lược. Nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời nhằm điều trị dứt điểm, cục thịt này theo thời gian to lên và có xu hướng sa ra bên ngoài.
Khác với trĩ ngoại, trĩ nội thường có búi trĩ nằm ở vị trí trong ống hậu môn – nơi không có dây thần kinh cảm giác. Vì vậy, khi bệnh ở giai đoạn đầu, bệnh nhân hầu như không có biểu hiện rõ rệt nào ngoài cảm giác nặng ở phần hậu môn. Chỉ khi gia tăng về kích thước, bạn mới nhận thấy các triệu chứng như đau rát, khó chịu và chảy máu sau khi đại tiện. So với trĩ ngoại, trĩ nội thường khó chẩn đoán hơn và đa số các trường hợp chỉ đi thăm khám khi bệnh đã chuyển sang cấp độ 2-4.
Bệnh trĩ nói chung và trĩ nội nói riêng gây ra những phiền toái, ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và tinh thần của người bệnh. Ở giai đoạn nặng, bệnh gây cản trở hoạt động đại tiện nên nhiều khi khiến bệnh nhân khó tự chủ.
Triệu chứng và dấu hiệu bệnh trĩ nội theo cấp độ
Trĩ nội được chia làm 4 cấp độ. Ở mỗi cấp độ, bệnh trĩ nội lại có những biểu hiện khác nhau. Càng về sau, các biểu hiện càng rõ hơn kèm theo những đau đớn ngày càng tăng ở người bệnh.
Trĩ nội độ 1
- Búi trĩ đang là một cục thịt nhỏ nằm sâu bên trong trực tràng, không thể sờ hoặc quan sát mà phải thực hiện các chẩn đoán bằng máy móc Yy tế để xác định.
- Bệnh nhân chảy máu ít khi đi vệ sinh. Tia máu có thể chỉ dính vào phân hoặc chảy nhỏ giọt hay bắn thành tia.
- Hậu môn tiết nhiều dịch nhầy khiến khu vực này ẩm ướt, ngứa ngáy và khó chịu.
Trĩ nội độ 2
- Búi trĩ bắt đầu sa xuống hậu môn, có thể bắt đầu sờ thấy đầu búi trĩ
- Khi đi vệ sinh, búi trĩ bắt đầu sa xuống, lòi ra bên ngoài nếu bệnh nhân rặn mạnh. Sau khi rặn xong, búi trĩ lại tự thụt vào bên trong.
- Lượng máu khi đi đại tiện nhiều hơn trĩ nội độ 1
- Bệnh nhân bị đau rát hậu môn, đau khi ngồi nếu không có đệm êm
Trĩ nội độ 3
- Búi trĩ lớn hơn, có kích thước dày và to, màu đỏ đậm, bề mặt xù xì
- Bệnh nhân thường xuyên bị co thắt hậu môn. Búi trĩ lòi ra bên ngoài ngay cả khi ngồi hay đứng.
- Khi đi vệ sinh, búi trĩ lòi ra ngoài nếu không tự đưa tay thụt vào bên trong.
Trĩ nội độ 4
- Ngay cả khi dùng tay, bệnh nhân cũng không thể thụt búi trĩ vào bên trong.
- Ở giai đoạn này, bệnh nhân gặp rất nhiều đau đớn và phiền toái đến mức không thể ngồi.
Nguyên nhân bệnh trĩ nội
Nguyên nhân sâu xa của bệnh trĩ nội là tình trạng áp lực tăng lên ở khu vực trực tràng. Áp lực đè nén khiến các tĩnh mạch có xu hướng phồng lên, phình to, tạo điều kiện cho máu ứ đọng và hình thành búi trĩ. Bệnh trĩ nội cũng như trĩ ngoại thường hình thành do nhiều nguyên nhân kết hợp với nhau. Trong đó có các nguyên nhân thường gặp là:
- Yếu tố tuổi tác: Các tĩnh mạch bị suy yếu và dễ tổn thương khi tuổi đã cao. Việc chịu nhiều áp lực trong thời gian dài khiến các tĩnh mạch ở trực tràng của người lớn tuổi dễ bị tổn thương và hình thành búi trĩ. Đây là lý do người cao tuổi hay mắc bệnh trĩ.
- Rối loạn tiêu hóa mãn tính: Các bệnh liên quan đến tiêu hóa như tiêu chảy, táo bón và mót rặn đều là yếu tố làm tăng áp lực lên vùng trực tràng. Thêm nữa, hậu môn và trực tràng thường xuyên bị kích thích bởi sự nóng lạnh bất thường từ bệnh tiêu chảy, táo bón. Tình trạng này diễn ra thường xuyên ở người bị tiêu chảy, táo bón mãn tính là nguyên nhân gây nên bệnh trĩ nội.
- Mang thai: Ở những tháng cuối thai kỳ, bệnh trĩ có thể xuất hiện ở phụ nữ mang bầu. Tử cung giãn nở kết hợp với cân nặng tăng đột ngột của cả hai mẹ con khiến tĩnh mạch ở trực tràng, hậu môn bị đè nén. Các tĩnh mạch ở trực tràng trong cơ thể người mẹ giãn ra, tạo nên búi trĩ.
- Người lười vận động: Nhóm người làm công việc văn phòng và lười vận động là đối tượng dễ bị trĩ và các bệnh xương khớp. Ngồi trong một thời gian dài không thay đổi tư thế dễ gây những áp lực đè nén lên tĩnh mạch vùng hậu môn, tăng nguy cơ bị bệnh trĩ nội.
- Những rối loạn ở trực tràng: Thu hẹp ống hậu môn khiến việc đẩy phân ra bên ngoài trở nên khó khăn và gây áp lực phình giãn tĩnh mạch.
- Quan hệ đồng giới: Hoạt động tình dục của quan hệ đồng giới phải qua đường hậu môn dễ làm tăng ma sát lên niêm mạc ống hậu môn khiến tĩnh mạch phình giãn, viêm và ứ huyết.
- Các nguyên nhân khác như: Ssinh hoạt, ăn uống không lành mạnh, ăn quá no, nhịn đi vệ sinh, ngồi xổm quá lâu, căng thẳng kéo dài,… cũng là những nguyên nhân chính gây bệnh trĩ nội.
Bệnh trĩ nội có nguy hiểm không ?
Bệnh trĩ nội không gây nguy hiểm đến tính mạng của người bệnh nhưng gây ảnh hưởng trầm trọng đến chất lượng cuộc sống của họ. Cảm giác đau đớn, không thể đứng, không thể ngồi, khó khăn khi đi đại tiện khiến bệnh nhân suy giảm nghiêm trọng về thể chất và tinh thần. Bên cạnh đó, người bị trĩ nội thường có xu hướng xấu hổ, e ngại khi hoạt động tình dục.
Nghiêm trọng hơn, nếu không có phương pháp điều trị trĩ nội kịp thời, bệnh có thể dẫn đến một số vấn đề khác như:
Thiếu máu mãn tính: Chảy máu khi đi đại tiện quá nhiều khiến lượng máu của cơ thể bị thiếu hụt, gây thiếu máu mãn tính. Từ đó, người bệnh sẽ thường xuyên mệt mỏi, chóng mặt, đau đầu.
Sa trĩ tắc mạch: Búi trĩ gây tắc mạch và hình thành cục máu đông bên trong búi trĩ. Vùng niêm mạc hậu môn khi bị sa trĩ tắc mạch phình lớn gây đau đớn dữ dội cho người bệnh.
Nhiễm khuẩn búi trĩ: Búi trĩ sa ra bên ngoài và bị thắt chặt bởi cửa hậu môn dễ gây tình trạng viêm sưng, loét, phù nề và hoại tử. Nếu không điều trị biến chứng này kịp thời, vi khuẩn gây nhiễm trùng có thể đi vào tuần hoàn máu gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
Rối loạn chức năng cơ hậu môn: Hậu môn có chức năng xì hơi và đào thải phân. Búi trĩ nằm chắn ngay cửa hậu môn khiến cho cơ quan này bị suy giảm chức năng nặng nề. Đây cũng là điều khiến bệnh nhân dễ bị e ngại, xấu hổ, gây ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý người bệnh.
Với những nguy cơ trên, bệnh nhân tuyệt đối không được chủ quan khi bệnh trĩ nội đang còn ở cấp độ 1, 2. Người bệnh nên điều trị dứt điểm khi bệnh chưa diễn biến quá nặng để tránh gây ra những vấn đề liên quan kể trên.
Chẩn đoán bệnh trĩ nội
Khác với trĩ ngoại, trĩ nội thường không sa ra khỏi ngoài hậu môn ở giai đoạn đầu nên rất khó để thăm khám lâm sàng. Trước khi thực hiện các kỹ thuật tìm ra nguyên nhân bệnh, bác sĩ sẽ thu thập thông tin về tiền sử bệnh lý, thói quen sinh hoạt của bệnh nhân để có những chẩn đoán ban đầu.
Tiếp theo, nếu nghi ngờ bệnh nhân bị trĩ nội, bác sĩ sẽ tiến hành kỹ thuật thăm khám sau:
- Trong trường hợp chẩn đoán búi trĩ đang ở cấp độ 2, bác sĩ sẽ yêu cầu bệnh nhân ngồi xổm xuống để xác định mức độ sa và quan sát độ dày, độ to của búi trĩ.
- Thực hiện kỹ thuật nội soi trực tràng để xác định chính xác hình dáng, kích cỡ búi trĩ. Kỹ thuật này đồng thời cũng giúp phát hiện các vấn đề có trong trực tràng bao gồm: ung thư trực tràng, polyp trực tràng,…
- Nếu kỹ thuật nội soi không thể giúp phát hiện vấn đề, bác sĩ sẽ yêu cầu bệnh nhân làm thêm các xét nghiệm như: xét nghiệm phân, xét nghiệm máu, chụp X-Quang,… Tuy nhiên, hiếm khi bệnh nhân bị trĩ nội phải thực hiện các kỹ thuật chẩn đoán này trừ khi bệnh đã tiến triển quá nặng.
Để biết chính xác bản thân cần thực hiện những chẩn đoán gì, bệnh nhân cần gặp trực tiếp bác sĩ. Người bệnh nên thực hiện chẩn đoán ngay khi phát hiện những biểu hiện ban đầu của trĩ nội giai đoạn 1-2. Ở giai đoạn này, việc chẩn đoán dễ dàng và việc điều trị cũng khá đơn giản với các bác sĩ chuyên môn cao.
Các cách điều trị bệnh trĩ nội
Bệnh trĩ nội sẽ được điều trị tùy vào tình hình búi trĩ đang ở cấp độ nào.
Trĩ nội cấp độ 1-2
Ở cấp độ 1-2, bệnh nhân có thể chỉ cần uống thuốc và dùng thuốc đặt làm teo búi trĩ theo hướng dẫn và chỉ định của bác sĩ. Ở cấp độ 1-2, hầu hết các bệnh nhân không cần tiến hành tiểu phẫu cắt bỏ búi trĩ.
Các loại thuốc chữa bệnh trĩ nội cấp độ 1-2
- Thuốc bôi dạng mỡ: Loại thuốc này có thể được sử dụng trực tiếp lên vùng hậu môn và trực tràng để giảm viêm, ngứa ngáy và phù nề. Thuốc này cũng trực tiếp làm sạch dịch ở hậu môn, giúp bệnh nhân cảm thấy khô thoáng hơn. Hydrocortisone, các thành phần làm dịu như Kẽm oxide, Panthenol,… và các hoạt chất kháng sinh giúp teo búi trĩ dần dần và tăng cường vệ sinh, làm sạch, kháng khuẩn vùng hậu môn và trực tràng.
- Thuốc giảm đau, chống viêm: Các loại thuốc này có khả năng giảm cảm giác đau rát và phù nề sau khi đi đại tiện cho bệnh nhân. Ibuprofen, Diclofenac, Naproxen,… là những cái tên nằm trong danh sách giảm đau, kháng viêm hiệu quả đối với bệnh trĩ nội.
- Thuốc nhuận tràng: Loại thuốc này có vai trò thúc đẩy nhu động ruột, làm giảm thời gian phân nằm ứ đọng bên trong đại tràng. Từ đó, quá trình đại tiện của bệnh nhân diễn ra dễ dàng hơn. Thuốc nhuận tràng thường được sử dụng cho các trường hợp trĩ nội bắt nguồn từ nguyên nhân táo bón lâu ngày.
- Thuốc làm tăng độ bền tĩnh mạch: Như đã đề cập, nguyên nhân của bệnh trĩ nội là do tình trạng các tĩnh mạch bị phình đại. Để hạn chế nguy cơ căng vỡ tĩnh mạch khi búi trĩ có xu hướng tăng kích thước, bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhân sử dụng các loại thuốc thuộc nhóm này như: Hesperidine, Disomine, Daflon,…
- Các loại thuốc khác: Ở từng bệnh án cụ thể, đơn thuốc dành cho người bị bệnh trĩ nội cấp độ 1-2 có những thành phần khác như: Vitamin C, thuốc kháng sinh, thuốc điều hòa nhu động ruột,…
Khi sử dụng thuốc điều trị trĩ nội, bệnh nhân phải có sự hướng dẫn và chỉ định từ bác sĩ để tránh các thành phần có trong thuốc xung đột với những căn bệnh có sẵn.
Phương pháp điều trị trĩ nội cấp độ 3-4
Khi bệnh trĩ nội đã tiến triển ở cấp độ 3-4, việc điều trị bằng thuốc chỉ có tác dụng giảm đau tạm thời mà không giải quyết triệt để được nguyên nhân. Biện pháp triệt để hơn được chỉ định lúc này là phẫu thuật cắt búi trĩ. Có nhiều cách để thực hiện tiểu phẫu cắt búi trĩ bao gồm:
- Cắt búi trĩ bằng dây thun: Thường được áp dụng cho các trường hợp trĩ chưa chuyển biến quá nặng.
- Chích xơ mạch máu đến nuôi búi trĩ: Sử dụng 1-2 ml chất làm xơ (thường là natri tetradecyl sulfate hoặc phenol 5%, quinine, urea hydrochloride, polidocanol) và tiêm vào niêm mạc của búi trĩ.
- Thủ thuật thắt dây thun cao su quanh búi trĩ. Vòng cao su này được đặt vòng quanh búi trĩ nhằm ngăn máu đến búi trĩ khiến nó bị teo đi và sau cùng tự rụng.
- Phương pháp Longo: là phương pháp cắt bỏ trĩ áp dụng riêng cho trĩ nội cấp độ 3-4. Phương pháp này hoạt động trên nguyên lý làm gián đoạn các mạch máu trên và giữa. Sau đó, bác sĩ thực hiện khâu niêm mạc hậu môn-trực tràng bị sa lên trên. Từ đó, búi trĩ về vị trí trong ống hậu môn rồi từ từ teo đi theo thời gian.
- Phương pháp khâu triệt mạch THD: Phương pháp này cũng hoạt động dưới nguyên tắc làm tắc mạch cung cấp máu cho hậu môn, từ đó làm giảm sự phình to của búi trĩ.
Tùy vào kết quả của các phương pháp chẩn đoán, bác sĩ sẽ xác định mức độ bệnh và đưa ra những phương pháp phù hợp với bệnh nhân.
Chế độ chăm sóc
Bên cạnh những phương pháp điều trị trĩ nội kể trên, bệnh nhân cần áp dụng chế độ chăm sóc khoa học, bao gồm ăn uống và tập luyện. Cụ thể:
- Bệnh nhân nên uống nhiều nước và tăng cường ăn rau xanh, hoa quả để bổ sung chất xơ trong chế độ dinh dưỡng . Chế độ ăn này có tác dụng làm mềm phân, hạn chế táo bón từ đó làm giảm áp lực lên khu vực trực tràng – hậu môn.
- Vệ sinh hậu môn bằng những dung dịch sát khuẩn nhằm tránh tình trạng ngứa ngáy, ẩm ướt.
- Trong quá trình điều trị trĩ nội, bệnh nhân có thể chườm lạnh lên vùng hậu môn để giảm đau.
- Tránh xa những đồ ăn nóng, chứa nhiều đạm, gia vị, dầu mỡ,… và những đồ uống có chứa chất kích thích.
- Không rặn khi đi vệ sinh vì hành động này tiếp tục tăng áp lực lên tĩnh mạch, gây nên tình trạng đau rát và chảy máu kéo dài. Nếu quá khó khăn khi đại tiện, bạn nên sử dụng thuốc nhuận tràng hoặc thuốc bôi dạng mỡ đã được bác sĩ kê đơn.
- Xây dựng chế độ tập luyện nâng cao sức khỏe ít nhất 15 – 30 phút/ ngày nhằm tăng cường tuần hoàn máu và điều hòa hoạt động của ruột. Các hoạt động thể chất nhẹ nhàng sẽ hỗ trợ bệnh nhân có quá trình điều trị trĩ nội tốt hơn.
- Tránh các thói quen xấu như ngồi xổm, thức khuya, ngủ không đủ giấc
Trên đây là những khía cạnh của bệnh trĩ nội được phân tích dưới góc độ khoa học. Để điều trị tận gốc, bệnh nhân cần được chẩn đoán cẩn thận bởi bác sĩ chuyên khoa, từ đó đưa ra những phương án điều trị phù hợp.